Ngoài ra, trong thời gian đó,
vua Trisong Detsen cũng cho gửi một số nhân tài qua Ấn Độ để
tu học và dịch giả Vairotsana
là một trong số bảy vị tỳ kheo đầu tiên được gửi đi. Dịch
giả Vairotsana tu học về pháp thiền Dzogchen (Đại Viên Mãn)
với ngài Shri Singha,
một đại đệ tử của ngài
Manjushrimitra. Cùng với đức Liên Hoa Sanh và
Vimalamitra, dịch giả Vairotsana đã có công lớn trong việc
truyền bá giáo lý Đại Viên Mãn tại Tây Tạng.
Sau đó, vào thế kỷ thứ 9, vua
Lang Darma, một bạo chúa,
đã hủy báng Tam Bảo và phá hoại chùa chiền, lùng giết chư
tăng. Tuy thế, dòng truyền thừa Cổ Mật vẫn tiếp tục
trường tồn trong giai đọan nhiễu nhương này bởi vì dòng Cổ
Mật nương vào sức mạnh của truyền thống tu tập của các
hành giả du già, không
hoàn toàn bị lệ thuộc vào các hệ thống tu viện và các thí
chủ giàu có của hoàng triều.
Cửu Thưà
(Nine Yanas)
Hệ thống
tu tập của dòng Cổ Mật gồm có
Cửu Thừa (Nine Yanas) và cũng như các truyền
thống tu tập khác của Phật Giáo Tây Tạng, các pháp tu của
Cửu Thừa bao gồm (1) Nhân Thừa
(Casual Vehicle) là các giáo huấn thuộc về giới luật, quy y
và phát tâm Bồ Đề của truyền thống
Nguyên Thủy và Đại Thừa.
Sau đó tiến tới (2) Quả Thừa
(Result Vehicle), được chia ra làm hai, gồm có ba
Ngoại Mật Điển, và ba
Nội Mật Điển (Three Inner Tantras).
Ngoại Mật Điển gồm có
Kriyayoga, Upayoga và Yoga. Nội
Mật Điển gồm có Mahayoga
(Đại Du Già), Anuyoga và
Atiyoga (Dzongchen/Đại
Viên Mãn).
Phương Thức
Truyền Giảng
Những pháp tu trên
đây đã được truyền giảng dựa vào ba dòng truyền dạy khác
nhau: (1) dòng truyền tâm
(direct mind transmission) đến từ dòng tâm thức bất biến của
chư Phật, (2) dòng truyền qua biểu
tượng (transmission by symbol) giữa các vị Kim
Cương Trì (Vidhyadharas) và (3) dòng
khẩu truyền (oral transmission) được truyền từ
thầy xuống đến trò -- từ Garab Dorje, đến Manjushrimita, đến
đức Liên Hoa Sanh/Guru Rinpoche, Vimalamitra...
Đức Liên Hoa
Sanh và Tàng Bảo Kinh
(Terma)
Ngoài ra, trong dòng
Cổ Mật còn có thêm cả trăm ngàn các
Tàng Bảo Kinh trong truyền
thống Terma, là truyền
thống của những tài liệu Mật điển quý giá, phần lớn
thuộc về Nội Mật Điển mà đức
Liên Hoa Sanh đã
sai Thánh nữ Yeshe Tsogyal
cất dấu tại các hốc đá, biển hồ, hang động (điạ
tàng kinh), hoặc do chính đức Liên Hoa Sanh thọ
ký cho các đại đệ tử, ấn ký vào trong giòng tâm thức (tâm
tàng kinh) của họ. Đây là những giáo lý Mật
thừa vô cùng quan trọng mà đức Liên Hoa Sanh đã truyền giảng
cho Hai Mươi Lăm Đại Đệ Tử.
Đức Liên Hoa Sanh muốn cất dấu những Tàng Bảo Kinh
này để đến khi đúng thời điểm, khi tâm trí
con người đủ trưởng thành và sẵn sàng để
đón nhận các giáo lý này
thì các tàng kinh ấy sẽ được khai quật. Rất
nhiều các hoá thân của Hai Mươi Lăm Đại Đệ Tử
và các đạo sư chứng đắc đã khai quật được những
tàng kinh này cho đến ngày hôm nay.
Những vị được giao phó cho nhiệm vụ cao quý này
thường được gọi là Terton, có nghĩa
là những vị khai quật tàng kinh.
Đây không phải chỉ đơn thuần là những tài liệu đến từ một
cõi giới huyền nhiệm nào khác mà chính là đến từ
chân tâm đã liễu ngộ của
đức Liên Hoa Sanh để lại cho
chúng ta.
Longchenpa và Giáo Lý Dzogchen - Đại Viên Mãn
Trong số các giáo lý
nói chung, có truyền thống Vima
Nyingtik (Tâm Yếu Của Vima) do ngài
Vimalamitra truyền bá
tại Tây Tạng, và truyền thống
Khandro Nyingtik (Tâm Yếu Của Thiên Nữ) do chính
đức Liên Hoa Sanh trao truyền. Sau này, đại đạo sư
Longchen Rabjam
(1308-1363) đã kết hợp các giáo lý Tâm Yếu và truyền bá các
giáo lý này theo hệ giảng của
Longchen Nyingtik (Tâm Yếu Của Đại Quảng Trí).
Ngài Longchen Rabjam hay
Longchenpa được kính
trọng như là một trong những vị Thầy vĩ đại nhất của truyền
thống Cổ Mật Nyingma. Ngài đã trước tác hơn 250 pho
luận giải về rất nhiều các đề tài khác nhau. Ngài nổi
tiếng nhất về các trước tác liên hệ đến pháp thiền
Dzogchen hay thiền
Đại Viên Mãn. Khi còn
tại thế, ngài Lonchenpa có không biết bao nhiêu là đệ tử và
thí chủ sẵn sàng cung phụng cho ngài, nhưng ngài đã chọn một
cuộc đời bình dị nghèo nàn của một hành giả, tu luyện nơi
núi non, hang động. Ngài tránh việc xây cất chùa chiền,
sống rất ẩn dật và thường khuyên đệ tử nên noi theo gương
ngài.
Jigme Lingpa
Khoảng bốn trăm năm sau, sau một thời gian dài giáo lý bị
thất truyền, vào thế kỷ thứ 18, ngài
Jigme Lingpa (1739-1798), còn được biết đến
dưới tên Khyentse Ozer, đã có được những linh kiến của
ngài Longchenpa và đã
được thọ nhận giáo pháp trực tiếp từ trí tuệ bát nhã của
Longchenpa trong thời gian Jigme Lingpa ẩn tu và thiền định
trong ba năm tại Chimphu.
Năm đó, ngài Jigme Lingpa chỉ mới vừa 28 tuổi. Những
giáo lý này đến từ hệ giảng của
Longchen Nyingtik, đã được khai mở và thọ ký
trong giòng tâm thức của Jigme Lingpa.
Khi được 34 tuổi, ngài Jigme Lingpa rời Chimphu để đi đến
Tsering Jong ở miền nam Tây Tạng và dựng lên một thảo am với
một học viện chuyên dạy về thiền. Năm 1765, ngài Jigme
Lingpa bắt đầu giảng dạy về giáo lý
Longchen Nyingtik (Tâm Yếu Của Đại Quảng Trí
hay Tâm Yếu Của Đại Toàn Tri).
Ju Mipham
Ngondro - Các
Pháp Chuẩn Bị Thông Thường và Phi Thường
Cho đến ngày hôm nay, giáo lý
Lonchen Nyingtik là giáo lý được truyền giảng và
thực hành sâu rộng nhất trong dòng Cổ Mật Nyingma. Đầu tiên
hành giả được hướng dẫn để thực hành các
pháp tu chuẩn bị (Ngondro)
gồm có hai phần: (1) các pháp
chuẩn bị thông thường
như quy y, quán chiếu về thân người hiếm quý, vô
thường, nhân quả và khổ não luân hồi, lễ lạy cùng với
(2) các
pháp chuẩn bị
phi thường như thiền
quán Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), cúng dường mạn đà la và
hành trì bổn sư du già (Guru Yoga). Khi đã hoàn tất
các quán chiếu cũng như 100 ngàn lễ lạy và 100 ngàn
lần các pháp thiền quán thì hành giả sẽ được sư phụ trực
tiếp chỉ dạy về bản tánh của tâm
-- trực chỉ chân tâm. Đây là giai đoạn hành giả
được trực tiếp hướng dẫn để tu tập theo pháp thiền
Dzogchen hay
Đại Viên Mãn, bao gồm
cả các pháp du già dựa trên khí mạch vi tế.
Ï
Phần
giới thiệu được biên soạn dựa trên tài liệu tham khảo.
Ï
Đang
thiét kế và bổ túc tài liệu. Xin vui lòng quay trở lại trang
nhà này trong tương lai...